Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010

Giấc mơ vô tận

"Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều".
 
Lời Chúa: Mt 15, 29-37
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.

Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
 
SUY NIỆM 1: Giấc mơ vô tận

Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành. (Mt. 15, 29-30)

Một Lời

Niềm hy vọng không ngừng vọt ra từ những bản văn của ngôn sứ Isaia. Hôm nay, niềm hy vọng này làm sống lại ước muốn của chúng ta được vượt qua những giới hạn của sự chết, được sống toàn vẹn, thoát khỏi tang tóc đau thương. Chúng ta thấy trong niềm hy vọng đó lời Chúa ban sự sống xứng đáng dồi dào, xóa sạch mọi khổ nhục. Đó là sự sống vô hạn.

Tin mừng lập lại đề tài này, không phải bằng lời loan báo viển vông, mà bằng dấu chỉ thực hiện niềm hy vọng vô tận này rõ ràng, cụ thể qua việc: “Chúa cầm lấy bảy tấm bánh và mấy con cá, Người tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng”.

Một Xã Hội

Chúng ta đang bị một cú sốc. Sau vài thập niên, ai cũng tưởng rằng trái đất là nguồn phong phú vô tận. Nhưng nếu chỉ trong vòng không đầy một tháng thôi, mỏ dầu cạn kiệt, biển khơi chồng chất cặn bã và làm cá chết, những loài vật biến mất, môi trường bị phá hủy, không khí bị ô nhiễm: trái đất sẽ cạn kiệt, thì không còn sản phẩm mới nữa, nguyên liệu hết, đời sống sẽ chẳng còn gì.

Và chúng ta sẽ ra sao?

Thiên Chúa đã hứa ban cho một đời sống phong phú vô tận, nhưng Ngài nhấn mạnh đến phẩm chất của đời sống này, chứ không nói đến đời sống vật chất. Để niềm hy vọng của chúng ta có một giá trị cao quý đích thực về đời sống, chúng ta hãy nghĩ xem và thử đặt vấn đề: “Tôi hy vọng gì? hay đúng hơn: tôi hy vọng vào ai?”. Chúng ta sẽ tìm thấy vô tận ở đâu? Nơi sản phẩm mình có, hay nơi nhân phẩm của mình, nơi cái mình có, hay nơi mình là. Cái mình là, cái phẩm giá mới làm cho đời sống trở thành vô tận. Vậy hãy ném cái thùng của mình vào cái giếng vô tận tuyệt đối, ném cái hữu thể của mình vào hữu thể của Thiên Chúa, ném đời sống mình vào nguồn sống hằng có đời đời của Thiên Chúa.

Sau cùng, để được sống vô biên, cần phải chia sẻ nó. Bánh được hóa ra nhiều để chia sẻ cho đám dân đông đảo, thế mà vẫn còn thu được nhiều thúng đầy. Của cải của chúng ta cần được san sẻ, đời sống của chúng ta cần được bẻ ra phân phát cho nhiều người, nhờ thế, nó được trở nên vô tận.
C.G

SUY NIỆM 2: Hoá bánh ra nhiều lần 2

Nạn đói tại Somali và một vài nơi trên thế giới là một ô nhục cho nhân loại ngày nay. Nhưng không riêng gì tại các nước nghèo, ngay trong các nước giàu, người ta cũng nói đến những hình thức nghèo đói và thiếu ăn mới, đó là nghèo đói tình người: con người có thể có một bộ óc phát triển hơn, một thân thể cường tráng hơn, nhưng trái tim thì lại mỗi ngày một nhỏ lại.

Chúa Giêsu đã đến để làm cho con người được giàu có dư dật hơn, nhưng thiết yếu là giàu có dư dật tình người. Ngài đã không mang lại cho con người cây đũa thần kinh tế chính trị để chỉ làm một cử động nhỏ bé là có đủ cơm bánh. Mồ hôi, nước mắt vẫn là định luật của cuộc sống. Chúa Giêsu không muốn xoá bỏ định luật ấy. Phép lạ, hay đúng hơn giải pháp Ngài đem đến chính là tình người: có tình người, con người có thể xoá bỏ được mọi thứ nghèo đói. Đó là sứ điệp mà chúng ta có thể tìm thấy trong bài Tin mừng hôm nay.

Chúa Giêsu xót thương đám đông đi theo Ngài. Ngài xót thương họ không những vì họ đang đói khát cơm bánh thể xác, mà còn vì nỗi đói khát tinh thần của họ. Phép lạ bánh hoá nhiều không phải là một giải pháp tạm thời xoa dịu cơn đói khát, mà là một lời mời gọi, một khơi dậy về một chiều kích vượt trên những nhu cầu thể lý. Bên kia cơm bánh nuôi thể xác, Chúa Giêsu mời gọi con người hướng về một của ăn không hư nát là sự sống thần linh, sự sống làm cho con người biết yêu thương, quảng đại hơn.

Chúa Giêsu đã có thể nói một lời và phép lạ liền diễn ra. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài tra vấn các môn đệ để khơi dậy nơi các ông mối quan tâm, lo lắng đến người khác. Và chính từ những chiếc bánh và nhưng con cá có sẵn, tượng trưng cho sự đóng góp và lòng quảng đại của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá nhiều nuôi sống đám đông dân chúng.

Giàu tình người, giàu lòng quảng đại, giàu tình liên đới, đó là sự giàu có đích thực, và với sự giàu có ấy, phép lạ của Chúa Giêsu sẽ không ngừng được tiếp diễn và lúc đó cái đói khát thể xác mới được xoá bỏ và kiếp nghèo mới được hạ giảm.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thứ Hai, 29 tháng 11, 2010

Mạc khải cho kẻ bé mọn

Cha đã mặc khải cho những người bé mọn (Lc 10,21)
Suy niệm
 
Phân tích

1. Văn mạch: Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời: “tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,17-20).

2. Chúa Giêsu lại liên tưởng đến những kẻ không đón nhận Tin Mừng vì lòng trí họ kiêu căng tự mãn. Những người này khác hẳn với những tâm hồn đơn sơ bé mọn đã đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng. Và Ngài cảm tạ Chúa Cha về việc đó.

Suy gẫm

1. “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…”: Tôi cũng xưng tụng cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ không phải là thành quả của công lao con người.

2. “… nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ”: xin cho con càng ngày càng đơn sơ hơn nữa: đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm con và đơn sơ với mọi người, vì đơn sơ là điều kiện thuận lợi con được Chúa dạy bảo và ban ơn.

3. Ba động từ chủ chốt của đoạn này là “thấy, nghe và biết.” Còn những người được “thấy”, được “nghe” và được “biết” Tin Mừng là ai? Thưa là những kẻ bé mọn. Nói cụ thể hơn, đó là các môn đệ Chúa và dân ở những nơi mà các môn đệ đến rao giảng. Họ không giống với dân ở những thành mà trong đoạn Tin Mừng phía trước (10,13-15) Chúa Giêsu đã nặng lời khiển trách. Những người đó tự cho mình là thông giỏi nên không đón nhận Tin Mừng. Họ giống như những chiếc thùng đầy nước cho nên có đổ thêm bao nhiêu nước nữa thì cũng tràn hết ra ngoài. Còn các môn đệ Chúa Giêsu và dân ở những nơi này thì khiêm tốn ý thức mình còn ngu dốt yếu kém nên vui vẻ đón nhận Tin Mừng, giống như những chiếc thùng rỗng nên chứa đựng được lượng nước đổ thêm vào. Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha vì đã cho những người bé mọn ấy được thấy, được nghe và được biết Tin Mừng.

Muốn đón nhận ơn Chúa, cũng như muốn hiểu biết Thiên Chúa hơn thì chúng ta phải trở nên những kẻ bé mọn, phải ý thức mình còn kém. Và bé mọn thực sự, khiêm tốn thực sự là phải biết đón nhận, đón nhận không những từ nơi Chúa, mà còn phải từ anh em của mình nữa. 

4. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua Chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10,24)

Môsê, Đavít, Êlia tất cả đều sống trong sự chờ đợi. Chờ đợi Lời Thiên Chúa hứa ban Con của Ngài đến được thực hiện. Họ mong được nhìn thấy Con Thiên Chúa, mong được nghe Ngài giảng dạy về Nước Trời. 

Các tông đồ đã sống, đã đồng hành với Ngài trên mọi nẻo đường. được Ngài dạy dỗ, được sai đi rao giảng Nước Trời. Các ông đã được thấy phép lạ Người làm. Được nghe Ngài nói về Chúa Cha và Nước Trời, nhưng các ông vẫn sống trong hoài nghi cho đến khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết.

Ngày nay, Ngài cũng nói với tôi mỗi ngày qua Tin Mừng, qua anh em tôi. Tôi vẫn thấy Ngài bị treo trên Thánh Giá, nơi những người cùng khổ, những người bị áp bức bất công, nơi những tâm hồn thống hối trở về. Tôi đã thấy Ngài sống lại vinh quang và những phép lạ Ngài làm trong cuộc sống quanh tôi. Tôi có thấy mình hạnh phúc hơn các ngôn sứ, các vua Chúa, các tông đồ không? Hay tôi cũng là môn đệ của chủ nghĩa hoài nghi?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui mừng và tin vào những gì Ngài đã làm cho con cũng như nói với con hằng ngày. 

5. “Lạy Cha là Chúa tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những người bé mọn biết những điều này” (Lc 10,21)

Bên cạnh tôi là bác nông dân chất phác đang nguyện kinh. Và kia là một người trí thức đang cầu nguyện. Thái độ bề ngoài cho thấy là họ hết lòng tin tưởng. Bác nông dân tin một cách đơn sơ, tin những gì mình nghe biết được. Người trí thức thì nghe, suy nghĩ, phân tích rồi cũng tin. Cả hai đều tin và ý thức mình là những người bé mọn, yếu đuối. Họ chấp nhận những giới hạn của mình và sẵn sàng mở ra cho mặc khải tình yêu Thiên Chúa.

Cũng thế, tôi chỉ có thể đón nhận mặc khải một khi trở nên nhỏ bé và khiêm tốn.
Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ như trẻ nhỏ, sẵn sàng đón nhận những gì Cha ban tặng cho con, và can đảm phó thác hoàn toàn cuộc đời con trong tay Cha.
Cha Carôlô
 
Cầu nguyện: 
 
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin Chúa là Chúa tể muôn loài, muôn vật. Chúng con tin Chúa là Đấng Emanuel đã đến trần gian để ở cùng chúng con. Chúa đã đến mạc khải Nước trời cho những kẻ bé mọn. Chúa đã chấp nhận mục nát đời mình trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Chúng con xin tạ ơn, chúc tụng Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã hứa với những ai thành tâm thiện chí cùng Chúa rằng: “Ai xin thì sẽ được. Ai tìm sẽ thấy. Ai gõ cửa sẽ mở cho.” Xin ban cho chúng con được lòng khiêm tốn và kiên trì tìm kiếm giá trị Nước trời trong thung lũng bể khổ trần gian. Xin đừng để chúng con thất vọng trước những nghịch cảnh cuộc sống. Cho dẫu cuộc đời có lắm truân chuyên. Cho dẫu đường đời có gập ghềnh bởi biết bao chướng ngại, xin cho chúng con biết chạy đến cùng Chúa để nhờ ơn Chúa chúng con vượt qua những gian nan và thử thách.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin ban cho chúng con quả tim đơn sơ như trẻ nhỏ, sẵn sàng đón nhận những gì Chúa ban tặng cho chúng con, và can đảm phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng con xin được nép mình bên Chúa như trẻ thơ nép mình trong vòng tay của mẹ. Amen

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

SỐNG MÙA VỌNG

"Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng. Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.”
(Đường Hy Vọng, số 978)
 
Mùa Vọng, ngày xưa thường gọi là “Mùa Áp” (theo tiếng Latinh là Adventus, từ động từ Advenire, tiếng Anh là Advent, có nghĩa là “đến gần”), với ý nghĩa là Mùa “trông đợi”, “mong chờ”.
Chữ Vọng theo từ điển Hán-Việt có 2 nghĩa:

Nghĩa thứ nhất 妄 (gồm chữ Nữ và chữ Vô) là Viễn vông, hư giả.  Chữ Vọng này hiểu là vô vọng. Td: vọng ngữ, vọng chấp, vọng niệm.

Nghĩa thứ hai 望 (gồm chữ Chủ, chữ Nguyệt[1] và chữ vô) là trông mong, chờ đợi, ngưỡng mộ.  Chữ Vọng này mới là hy vọng.  Nó còn có nghĩa là ngưỡng vọng, ngửa trông lên Trời với lòng mong mỏi.  Td: Vọng bái hay Vọng nhựt vào ngày rằm âm lịch.

Theo truyền thống Giáo Hội, Mùa Vọng có bốn ý nghĩa sau:  Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị đón Chúa Kitô "đã đến" lần thứ nhất; Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" lần thứ hai vào ngày tận thế; Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta; Mùa chuẩn bị tâm hồn Kitô hữu xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới.

1/ Mùa Vọng là Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị đón Chúa Kitô “đã đến” lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn năm. Kỷ niệm ở đây không đơn thuần là hoài niệm, không chỉ là những hình ảnh hay biến bố để ghi nhớ, nhưng là một thực tại để sống.

Mùa Vọng trước tiên là Mùa để chúng ta sống lại lịch sử ơn cứu độ của Đức Kitô trong cuộc đời mình, bắt đầu từ việc dân Do thái mong đợi và chuẩn bị Đấng Messia (Chúa Kitô) đến để "giải phóng" họ khỏi ách nô lệ, đặc biệt là nô lệ tội lỗi. Isaia đã loan báo, Gioan Tẩy Giả đã dọn đường, dân chúng cũng đã chịu phép rửa sám hối để đón nhận Đấng Messia.

Đấng Messia là Đức Kitô đã đến, ban đầu người ta cũng hồ hỡi đón nhận Ngài, nhưng rồi thấy Ngài là Đấng không giống như mình nghĩ, không hành động như mình mong, không thực hiện những điều như mình muốn, nên người ta dần dần bỏ Ngài.  Hơn nữa, vì quyền hành và tham vọng, vì kiêu căng và lòng chai dạ đá, nên các vị lãnh đạo tôn giáo muốn khai trừ Ngài.

Quả thật, “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Người Do Thái đã muốn nắn đúc Vị Cứu Tinh theo ý đồ và tham vọng của họ, muốn đúc khuôn một Vị Cứu Thế theo quan niệm và mơ ước của họ, nên đã không nhận ra hay không muốn nhận ra Ngài. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã chết cho những ảo tưởng, kiêu căng và tội lỗi của họ, và thật ra cũng là của nhân loại, của mỗi người chúng ta.

Cho tới ngày nay họ vẫn còn gục đều vào bức tường than khóc để chờ đợi một Đấng Messia như lòng họ mong ước, chứ không như Thiên Chúa ước mong. Như vậy, sống lại lịch sử của ơn cứu độ trong Mùa vọng là để chúng ta xác tín rằng, thái độ mong đợi và chuẩn bị Chúa đến trước tiên phải là hành vi tẩy não và thanh lọc cuộc sống mình, để không rơi vào tình trạng vong thân và lạc mất cứu độ như dân Do Thái xưa.

Nói đến tẩy não là vì trong đầu óc ta đầy những tạp niệm, định kiến, thành kiến, thiên kiến; cũng như những hình dung và quan niệm lệch lạc hoặc thiếu xót về Thiên Chúa, về chính mình và tha nhân, để từ đó sáng lên một cái nhìn trung thực, đúng đắn, rõ ràng và thâm sâu về mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa.

Nói đến thanh lọc là vì bản thân ta luôn dễ bị ô nhiễm bởi nhiều ham muốn, đam mê, dục vọng, khiến ta sai lạc, và nô lệ cho tội lỗi. Tội lỗi làm tâm trí ta trở nên đen tối không còn khả năng nhận diện và gặp gỡ Chúa. Vì thế, tẩy não và thanh lọc bản thân điều kiện tối cần. Đó cũng là hành vi tự cứu độ mình trước khi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.

2/ Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô “sẽ đến” lần thứ hai vào ngày tận thế.  Ngày đó cũng là ngày “không ngờ”, ngày mà “Con Người sẽ ngự đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả!” để xét xử phân minh.  Tuy nhiên đối với những ai có lòng tin nơi Đấng Cứu Thế, và sống theo Phúc Âm của Ngài, thì ngày đó, không đáng kinh khiếp, nhưng lại là “Ngày Giải Thoát” để bước vào miền hạnh phúc viên mãn của cuộc sống “trường sinh, vinh hiển”, một “Trời Mới Đất Mới” (Is 65, 17; 66, 22; Kh 21, 1-4).  Hoa quả của lòng tin chính là đức ái trong mọi tương quan hằng ngày. Tiêu chuẩn chính yếu của ngày chung thẩm không có gì khác hơn là tình yêu mến, là đức ái (x. Mt 25, 32-55).

Dostoievski có lần kể câu chuyện về một người phụ nữ ở dưới luyện ngục, tha thiết xin thánh Phêrô cho lên thiên đàng.  Thánh nhân yêu cầu bà nhớ lại xem đã làm được điều gì tốt để ngài có thể dựa vào lý do đó mà xét cho vào Thiên đàng. Người phụ nữ nhìn lại thật tỉ mỉ cuộc đời và nhớ chắc chắn đã có lần cho lão ăn mày khốn khổ một củ hành. Bà vội trình với thánh Phêrô và ngài phán, vì ngươi đã cho kẻ khó một củ hành nên bây giờ ta sẽ cột sợi dây vào củ hành thả xuống luyện ngục, rồi ngươi cứ bám vào đó, ta sẽ kéo lên. Thế là người phụ nữ bám chặt vào củ hành để thánh Phêrô kéo lên. Khổ nỗi khi thấy bà được kéo lên, những người khác nhao nhao xin theo và bà ra sức dẫy dụa đạp họ xuống, vừa đạp vừa la “một mình tao lên thôi”! Nhưng vì dẫy dụa quá nên sợi chỉ đứt luôn và bà vẫn ở lại chỗ cũ.

Tới lúc lên thiên đàng mà vẫn còn ích kỷ. Câu chuyện này có thể làm ta liên tưởng đến hình ảnh các nhân vật tư tế và trợ tế trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (x. Lc 10) khi họ vội vã lên đền thờ mà bỏ quên tha nhân trong cảnh đau khổ.  Thiếu tình yêu, thiếu bác ái với tha nhân, thì những cố gắng chu toàn các bổn phận thờ phượng có nghĩa lý gì? “Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9, 13).

3- Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta. Không ai biết được ngày giờ nào, vì thế, hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng. Như Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào!” (Mc 13, 33). Thánh Phaolô cũng khuyên: “Chúng ta mong chờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra …” và mong rằng “chúng ta bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1Tx 5, 23)

Thường xuyên suy gẫm về sự chết là cách thế hữu hiệu nhất để sống cách tốt nhất. Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm: “Nếu tôi biết ngày mai mình sẽ chết, thì hôm nay tôi sẽ sống một ngày đẹp nhất”. Chúng ta chưa sống từng ngày đẹp nhất là vì cứ tưởng mình còn lâu mới chết. Đó cũng là cám dỗ của ma quỉ để ta mê say cuộc sống này mà mất đi sự cảnh giác.

Ai cũng dễ ham mê gây dựng cho mình một sự nghiệp trần thế, muốn có uy tín hơn, sáng giá hơn, chức vụ cao hơn, ảnh hưởng lớn hơn, mọi người nể phục hơn, làm nên những công trình to tát hơn. Ít có ai muốn sống âm thầm, hiền lành, khiêm tốn và vui lòng chịu khó, chịu khổ theo ý Chúa muốn; ít ai muốn chịu khinh khi, chịu xóa mình, chịu quên lãng, để sống cho Chúa và tha nhân. Nhưng rồi tất cả những gì chúng ta gầy dựng để mong hưởng thụ cho riêng mình đều là hư vô, vì khi nằm xuống trong lòng đất rồi thì tất cả đều chấm dứt, chẳng còn lại gì. Chẳng ai còn nhớ đến, thế hệ tương lai cũng chẳng biết ta là ai, hiện hữu cũng vậy, không hiện hữu cũng thế, duy chỉ một mình Chúa biết. Quả thật, ý nghĩa và giá trị cuộc sống của ta chỉ ở nơi Chúa mà thôi. Vì thế, đừng bao giờ tìm kiếm những gì ngoài Chúa, những gì không phải là Chúa.

4. Thực tế, Mùa Vọng là mùa chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới. Thật sự ta chẳng bao giờ xứng đáng được với chính Chúa, Đấng thánh thiện vô ngần, nhưng chỉ là bớt bất xứng hơn. Điều này đòi hỏi mỗi người cứ phải hoán cải, sửa đổi và tu chỉnh cuộc sống không ngừng, để góp phần với Chúa làm cho cuộc sống trở nên chân thật hơn, khiêm tốn hơn, yêu thương hơn, cao đẹp hơn, an bình hơn, như tiên tri Isaia đã hô hào, như Gioan Tẩy Giả đã loan báo, như trong thơ 2Phêrô 3-9 đã nhắc lại “Thiên Chúa kiên nhẫn đối với anh em; vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn mỗi người đi đến chỗ ăn năn hối cải …”.

Nguyễn Trãi có câu: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu thị bách niên cơ” (Một bước sa chân là ngàn đời ân hận. Quay đầu trở lại là trăm năm cơ đồ).  Cần làm một cuộc trở lại cách đặc biệt trong Mùa Vọng này: trở lại với Chúa, trở lại với anh em, và trở lại với chính mình để đón nhận một sức sống mới.

Chúa Giáng Sinh không chỉ là một biến cố hồng phúc đối với Đức Maria ngày xưa, nhưng còn là một biến cố ân phúc đối với mỗi người chúng ta ngày nay.  Theo cha Zundel, điều này có nghĩa là Chúa cũng muốn cho chúng ta nên giống như Đức Mẹ là cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa lớn lên trong cuộc đời mình. Đây là điều chúng ta đọc thấy trong phụng vụ lễ Giáng sinh: “Một đứa trẻ được sinh ra cho chúng ta”.

Thiên Chúa muốn sinh ra từ chúng ta cũng như chúng ta được sinh ra từ Ngài. Điều bí ẩn sâu sắc nhất của Phúc Âm, đó là Thiên Chúa muốn sinh ra từ lòng mến của chúng ta. Người ta chỉ tin vào Thiên Chúa, tin vào Phúc Âm khi bộ mặt của Chúa Giêsu lộ rõ trong đời sống của chúng ta, để từ đó ta mới có thể trao ban Chúa cách đích thực cho người khác. Mỗi lần khuôn mặt người khác được sáng lên do sự tiếp xúc với lòng bác ái của chúng ta, thì đó là nét mới của khuôn mặt Thiên Chúa được lộ ra. Nếu không như thế, thì đời sống thiêng liêng, mọi hoạt động tông đồ và truyền giáo đâu có nghĩa gì. Đó cũng chính là sự thể hiện tính cách mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ của Giáo Hội trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Hiểu như thế và xác tín thâm sâu như vậy, chúng ta mới thấy Lễ Giáng Sinh có một ý nghĩa trọng đại trong từng năm của cuộc đời mình. Nhờ đó, ta biết chuẩn bị bằng cách cải đổi tâm hồn mình như thế nào để phát sinh hiệu quả ơn thánh và làm lớn mạnh công trình tình yêu mà Chúa muốn thực hiện nơi mỗi người chúng ta.

[1] Vầng trăng còn là biểu tượng của Chân, Thiện, Mỹ mà con người hằng ngưỡng vọng. Truyền thống Phật giáo ghi nhận là hầu hết những sự kiện quan trọng trong cuộc đời đức Phật đều diễn ra vào những đêm trăng tròn.

Lm. Thái Nguyên

Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010

Hãy Sẵn Sàng

Hãy Sẵn Sàng (28.11.2010 - Chúa Nhật 1 Mùa Vọng năm A)

Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi.
Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh
mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một.




Lời Chúa (Mt 24,37-44)
Ðức Giêsu nói với các môn đệ về ngày quang lâm của Người rằng: 37 "Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.  Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; 41 hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
42 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Suy Niệm
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992,
một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ
để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm.
Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc,
nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế.
Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào.
Ðức Giêsu cũng bảo là Ngài không biết (Mt 24,36).
Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi,
nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Ðây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay,
nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình
để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại.
Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi.
Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh
mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một.
Ðó là một ngày đáng sợ,
không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra,
nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một ngày hội vui:
ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang,
ngày vui của những người được cứu chuộc,
ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới.
Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa đến
ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu.
Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế.
Tận thế bị coi là chuyện tương lai xa vời.
Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và hy vọng:
ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột
Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế
cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống.
Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây doing thế giới
trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Ðối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn,
ngày của hủy diệt và tang tóc,
nhưng là ngày của thân xác được sống lại,
ngày khai sinh một thế giới mới
không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm.
Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài.
Sẵn sàng là cùng với Chúa
xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý.
Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ,
nhưng nó sẽ ít bất ngờ
đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại

NCS

CN.1a Mùa Vọng

Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010

Vua vũ trụ của lòng tôi!!!

vua vũ trỤ, vua cỦa lòng tôi
Một trong hai kẻ gian phi bị treo trên thập giá thưa với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,42-43)
Suy niệm: Vũ trụ có thể quan sát được bằng các kính thiên văn hiện đại gồm trên một trăm tỉ thiên hà. Trong số hàng trăm tỉ đó, bằng mắt thường ta chỉ có thể nhìn thấy một dải Ngân Hà như một vệt sáng mờ  mờ. Mặt trời và các hành tinh của nó cũng chỉ là một trong số hàng trăm tỉ thành phần của dãi Ngân Hà này mà thôi. Như vậy, trong vũ trụ, con người và Trái Đất thật là bé nhỏ. Vậy mà, Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ đã chấp nhận đến và chết để cứu độ loài người. Ngài không phải là vị Vua xa lạ, vua của các vì tinh tú, nhưng Ngài là Vua Toàn Năng, Đấng có quyền và muốn đưa con người vào trong Vương Quốc vĩnh cửu của Ngài.
Mời bạn: Vào lúc tưởng như thất bại thê thảm nhất của Chúa Giêsu, thì một kẻ gian phi lại tin Ngài: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Không một lời tuyên xưng đức tin nào mạnh mẽ bằng lời của anh ta vào lúc này. Chúa đã tuyên bố cho anh được ở trong Nước Trời với Ngài.
Chia sẻ: Ban nghĩ gì về kiểu nói : vua nhạc, vua hài, vua xe, vua tốc độ…? Cho người khác biết bạn có một Vua, đó là Vua Giêsu, có cần thiết không? Làm cách nào?
Sống Lời Chúa: Làm một cử chỉ để thể hiện bạn tôn nhận Chúa Kitô là Vua của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng để những giá trị trần gian lôi cuốn con xa Chúa. Nhưng hãy giúp con biết tuyên xưng Ngài là Vua của lòng con, để cả cuộc sống con luôn luôn hướng về Ngài.

Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2010

Nơi gặp gỡ Chúa

Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp! (Lc 19,46)
Suy niệm
 
Phân tích

Ý nghĩa của hành động Chúa Giêsu là thanh tẩy Đền thờ, gồm 2 khía cạnh:

1. Loại khỏi Đền thờ những gì đi lệch khỏi mục đích của nó. Việc buôn bán trong Đền thờ đã biến “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” trở thành “sào huyệt của bọn cướp,” vì thế Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán.

2. Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó: “Hàng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ.”

Suy gẫm

1. Mua bán những lễ vật để đem vào dâng trong đền thờ không phải là thờ phượng đích thực. Nghĩ rằng dâng lễ vật tức là thờ phượng Chúa thì càng sai hơn nữa. Bởi đó Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người mua bán lễ vật. Thờ phượng đích thực là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Bởi đó sau khi đánh đuổi những người mua bán, Chúa Giêsu “hằng ngày giảng dạy trong Đền thờ” và “toàn dân say mê nghe Ngài.”

2. Việc phượng tự của chúng ta dễ bị biến chất, mất đi ý nghĩa cao đẹp ban đầu. Xin Chúa Giêsu giúp ta biết thường xuyên rà lại nếp sống thờ phượng của ta. 

- Chúa Giêsu đến canh tân việc phượng tự: từ nay không còn là chiên bò, chim câu… mà chính thân xác Ngài là lễ vật tuyệt hảo dâng lên Thiên Chúa Cha. 

- Chúa Giêsu là đền thờ mới sau khi “bị phá đổ trong 3 ngày.” Từ nay muôn dân quy tụ nơi đền thờ này để dâng lễ vật.

3. Ta nhớ lại lời thánh Phaolô: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.” (Rm 12,1). 

- Cả cuộc đời tôi là của lễ. Lạy Chúa, xin thương nhận “của lễ hiến tế đời con.”

4. Hay tin một Linh mục mới vừa được đổi đến để thay cho Cha xứ cũ về hưu, lại được biết Linh mục mới này giảng rất hay, người ta đến nhà thờ dự lễ rất đông. Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trước giáo dân trong xứ, vị Linh mục mới cố tình ra mắt họ với một bộ mặt rất xấu xí. Bởi đó, khi vừa thấy mặt cha, một số người đã thất vọng lui ra cửa. Vị Linh mục bình thản giơ tay làm dấu bảo im lặng, rồi tuyên bố: “Hôm nay ai đến đây để nhìn mặt cha xứ mới và để nghe cha xứ mới giảng thì có thể về nhà; còn ai đến đây để thờ phượng Chúa thì hãy ở lại.” 

5. “Chúa Giêsu nói với họ: ‘Đã có lời chép rằng Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46)

Có những lúc con tự hỏi: Chúa sẽ như thế nào khi Ngài đến nơi cung lòng con? Và đường như con nghe Lời Ngài khiển trách, vì đã có những lần con đến gặp Ngài nơi Bàn Tiệc Thánh nhưng tâm trí con lại để ở đâu. Con mải lo suy tính: chiều nay con sẽ đi shop mua giày, sáng mai con dậy sớm để giải một bài toán. Có khi cả buổi lễ con toàn nhớ đến “người ấy.” Hay hết bài giảng của Linh mục chủ tế là con lập được dàn ý của bài luận văn…

Giêsu ơi, xin cho con mỗi lần đến với Ngài, tâm hồn thanh thản, và gặp Chúa trong tình thân. 


Cha Carôlô


Cầu nguyện
 
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thật hạnh phúc vì được trở nên đền thờ cho Chúa ngự trị. Chúng con biết rằng: Chúa ưa thích cõi lòng chúng con hơn mọi đền đài nguy nga tráng lệ. Chúa muốn chúng con dành chỗ nhất cho Chúa ngự trị trong cõi lòng chúng con. Xin giúp chúng con biết dọn mình xứng đáng mỗi khi được rước Chúa. Xin tháo gỡ khỏi tâm hồn chúng con những quyến luyến tạo vật tầm thường để tâm hồn chúng con dành trọn vẹn cho Chúa.

Nhưng Chúa ơi, xin tha thứ cho những bộn bề trăm chiều của lòng trí chúng con. Chúng con còn để tâm hồn mình ngổn ngang bởi những đam mê tội lỗi, những tư tưởng thiếu thanh cao, những suy nghĩ tầm thường. Tâm hồn chúng con chưa dành cho Chúa vị trí số một. Chúng con còn để cho những lôi kéo của danh lợi thú trần gian làm chủ tâm hồn mình. Xin giúp chúng con đừng vì những quyến luyến thụ tạo tầm thường mà đánh mất sự trong sạch của tâm hồn là đền thờ của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự và phụng sự Chúa hết lòng hết trí khôn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con một tâm hồn thanh thoát khỏi những đam mê trần gian. Xin gột rửa linh hồn chúng con trong ơn thánh của Chúa để nhờ đó chúng con nên tinh tuyền xứng đáng là đền thờ của Chúa. Amen 

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Còn thương rau đắng mọc sau hè - Hương Lan

Thứ Ba, 16 tháng 11, 2010

Sống cho Chúa

sống cho chúa
“Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén” (Lc 19,16)
Suy niệm: Điều tra của Tổ chức Minh bạch Quốc tế về chỉ số tham nhũng năm 2005 xếp Việt Nam đứng thứ 107/159 nước và năm 2009 tụt xuống hạng 120/180 nước, nghĩa là vẫn nằm trong 1/3 cuối bảng xếp hạng, thuộc nhóm các nước mà nạn tham nhũng trầm trọng hơn cả. Theo định nghĩa của tổ chức này, “tham nhũng” là “lạm dụng quyền hành được trao phó cho mình để thủ lợi riêng tư”.
Người tôi tớ trong dụ ngôn được khen là trung thành không chỉ vì đã làm ăn sinh lời mà là vì - nói theo ngôn ngữ hiện đại - đã không “tham nhũng” lạm dụng quyền hành để tư túi, biến của chủ thành của mình. Trái lại, anh đã sinh lời và sinh lời cho chủ; anh đã đem cả vốn lẫn lời đến trình với chủ cách công khai, minh bạch: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén”.
Mời bạn: Tất cả những gì bạn có, kể cả sự hiện hữu của bạn là những nén bạc Thiên Chúa ban cho. Thế nhưng thay vì sinh lợi để thăng tiến bản thân và “làm lợi” cho Chúa, chúng ta quên mình chỉ là người quản lý những ơn huệ Chúa ban để rồi phung phá hoặc sử dụng chúng cách ích kỷ. Cuộc sống là một chuỗi dài hồng ân, là những nén bạc mà Chúa đã ban cho con người, không phải chỉ để hưởng dùng cho riêng bản thân mình, nhưng là để sống cho Chúaphục vụ cho công cuộc của Ngài.
Sống Lời Chúa: Làm một việc cụ thể trong khả năng Chúa ban để giúp đỡ một người nghèo khổ, bất hạnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con biết dùng những gì Chúa ban để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin giúp chúng con đừng bao giờ từ chối giúp đỡ những ai nghèo khó, bất hạnh. Amen.

SẦU RIÊNG

Khi đau buồn một mình, người ta gọi đó là sầu riêng. Sầu riêng là cô lẻ của một bóng hình. Nó ảm đạm và vàng úa.
Tôi là trái sầu riêng. Người ta gọi tôi như thế. Tôi xin kể đôi lời về tâm sự của trái sầu riêng. Tôi hiểu rất thấm thía thế nào là sầu riêng vì tên gọi của tôi là vậy.
Tôi sinh ra là một trái xanh giữa cuộc đời. Nơi tôi không có nỗi sầu.
Rồi một ngày có một bờ môi đặt lên da thịt tôi. Bờ môi nhè nhẹ tìm đường, lần mò mút trên da thịt tôi. Một cảm giác thơm tho dâng lên từ tâm hồn. Chất ngọt rịn ra thấm trên đôi môi ấy. Tôi là một nỗi vui riêng.
Cũng ngày định mệnh đó, một bờ môi khác cúi xuống. Nhưng chuyện không ngờ xảy đến. Một bờ môi gằn gằn. Toàn thân tôi nhầy nhụa. Ở bờ môi kia không rịn ra hương ngọt. Tôi là một nỗi nồng tanh.
***
Bạn thân mến,
Như thế đó. Hai bờ môi, hai cảm xúc khác nhau. Tôi ngỡ ngàng vì tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ là một loài trái xanh giữa rừng xanh cuộc đời. Tự nơi tôi không là nỗi vui riêng, chẳng là nỗi sầu chung. Tất cả là do bờ môi con người.
Tình yêu cũng vậy, tự tình yêu, nó không là nỗi sầu, không là niềm vui.
Nó tuỳ thuộc ở trái tim nuôi nấng nó.
Hạnh phúc với người này có thể là đau khổ với người kia. Ngọt ngào với bờ môi này có thể là cay đắng với bờ môi nọ. Cũng như đau khổ, có thể là “hoa trái đau thương lừng hương” với tâm hồn này, là bất hạnh với cõi lòng kia. Có phải chăng tất cả hệ tại ở mỗi tấm lòng không? 
Có những chiều tôi nghe lời ca văng vẳng từ giáo đường:
Dẫu rằng đời con lầm than
sức hèn con ngã nhiều phen,
nhưng con luôn trông đến ngày tàn phai mùa đông,
ánh vàng sự rỗi reo mừng.
Lời ca lúc chiều về, tiếng hát nhẹ nhàng gửi vào cõi đời, tôi thấy êm đềm làm sao. Cho dù đời con lầm than, con vẫn cậy trông có một ngày mùa đông sẽ tàn phai. Cho dù sức hèn lắm có ngã nhiều phen, nhưng tâm hồn lời ca này vẫn nhìn thấy một ngày kia, sự cứu rỗi đẹp như những ánh vàng nhảy múa rực rỡ. Cũng là cuộc đời mà sao có người nhìn đời đẹp như thế.
Rồi cũng trong lời ca ấy. Có những lúc như rưng rưng, gửi một tấm lòng rất thiết tha: “Hoa trái đau thương lừng hương”. Trong đau thương mà tâm hồn lời thơ lại nếm thấy hương ngọt thơm lừng. Tâm hồn lời ca rủ đời đi tìm “ngọt trong sầu than”, đi tìm “mạnh mẽ trong nguy nan”. Ở đời làm sao tránh hết đau thương. Nó là mảnh vườn nhân thế mà. Bước vào vườn là vướng gai góc khổ luỵ. Ở đời làm sao tránh hết nguy nan. Sinh ra là chào cuộc đời bằng tiếng khóc kia mà. Nhưng lạ quá, lời ca cứ nhẹ ru đời, rủ đời đi tìm sức mạnh trong nguy nan. Tôi nghe lời ca mà thấy cuộc đời có nhiều kỳ diệu. Và tâm tư tôi, thoang thoảng một tấm lòng của lời người nhạc sĩ ấy. Tôi vẫn lấp lại đôi lúc chiều buông:
Ban ơn cho con biết tìm ngọt trong sầu than,
biết tìm mạnh trong nguy nan,
biết có xuân trên đông tàn.
     (Hùng Lân: Mẹ Là Mùa Xuân Ánh Sáng) 
Trở lại câu chuyện của trái sầu riêng. Lúc tôi gặp hai bờ môi, hai cõi lòng khác nhau tôi vừa kể trên. Tôi chỉ là một trái xanh trong vườn xanh cuộc đời. Nhưng tâm trạng con người khác nhau nên tôi là hương thơm cho người này mà không là hương thơm cho người kia. Lạ quá nhỉ.
Trong hôn nhân, nỗi sầu riêng là nỗi sầu dư thừa. Đời tôi không mang một chút gì sầu riêng. Tôi chỉ là một trái xanh trong vườn xanh cuộc đời. Tôi bị gọi tên là sầu riêng nên tôi biết rõ cái tên gọi dư thừa này thế nào thì sầu riêng trong hôn nhân cũng dư thừa như thế.
Nếu đã là hôn nhân sao lại có sầu riêng?
Họ đi chung một con đường, chèo chung một con đò sao lại có nỗi sầu riêng?
Sầu riêng là tâm trạng của tâm hồn không có ai tâm sự.
Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Giếtsêmani. Người nói với các ông: “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện”. Rồi Người đem các ông, Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức”. Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn”. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: “Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?”
Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ (Jn 14,32-40).
Đó là nỗi sầu riêng. Gần mà xa quá đỗi. Cõi lòng vắng lạnh trong phút cuối mùa hương khói. Như cây nhang gắng gượng vào phút cuối đời, lãng đãng làn khói tàn hơi. Nó là vắng vẻ của buổi chiều lá rụng. Khi bên nhau mà không có nhau thì nỗi sầu trở thành của riêng nhau. Như tiếng mõ tụng kinh da diết trong sân chùa của chuyện tình Lan và Điệp.
Nỗi vắng của Đức Kitô là: “Simon, anh ngủ à? Anh không nổi với Thầy một giờ sao ?”.
Phêrô có thức được một giờ hay cả đêm thì cũng không cứu được Đức Kitô. Ngài phải chết. Vậy Đức Kitô kêu tiếng gọi ấy làm gì?
Không ai có năng lực hoá giải được khổ đau. Tôi không cứu được con tôi khỏi tù. Cũng như bà mẹ sinh con. Không ai sinh dùm bà được. Bà phải đi một mình. Nhưng khi biết được có kẻ muốn đi với mình thì khác lắm. Nó là năng lực mầu nhiệm vì ơn thánh không phải là để cất nhắc hết nghịch cảnh, nhưng biến đổi tâm hồn kẻ mang nghịch cảnh thế nào thì đau khổ cũng thế. Cùng nhau đau khổ không có năng lực cất hết những khó khăn của đời nhau, nhưng có năng lực làm cho nhau bớt khổ đau. Đau khổ thành sầu riêng khi không ai muốn đau khổ với mình. Khi đau khổ mà phải sầu riêng thì nó hắt hủi. Không ai sinh con dùm bà mẹ được. Nhưng nếu có lời:
- Anh đi cùng em. Em luôn có anh bên đường.
Trong giờ sinh con ấy, nàng có đau nhưng không có khổ. Cái khổ làm người ta đau chứ chưa hẳn cái đau làm người ta khổ.
Đức Kitô không sợ đau, nhưng Đức Kitô biết “tâm hồn Thầy buồn đến chết được”. Nỗi buồn đó của Đức Kitô, nó là sầu riêng. Vì, Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ.
Đau của Đức Kitô ở đây là không ai biết mình đau. Nó là bơ vơ. Trong tình yêu mà đau một mình thì không còn là tình yêu. Người ta chỉ có thể vì tình yêu mà đau một mình chứ không thể trong tình yêu mà lại phải một mình đau.
Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh viết về đôi dép
Vật tầm thường cũng trở nên rất đẹp
Khi lòng ta da diết một nỗi nhớ 
Hai chiếc dép kia gặp gỡ tự bao giờ
Mà yêu quá chẳng rời nhau nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhưng xuống cát bụi cùng nhau  
Cùng bước cùng mòn không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia  
Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế sẽ trở thành khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu  
Cũng như mình trong những phút vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh  
Đôi dép vô tư khắng khít bước song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt có đôi
Không thiếu nhau trên những bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái
Anh yêu em bởi những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau bởi một bước đi chung  
Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
(Không rõ tác giả)
Tiếng thở dài của hôn nhân là không ai khổ chung với mình. Khổ của hôn nhân là phải sầu riêng, khi đáng lẽ mục đích của hôn nhân là có ai phải sầu riêng thì ta nhận đó là nỗi sầu chung.
Lạ lùng của tình yêu là khi sầu chung thì người ta thấy “hoa trái đau thương lừng hương”. Và rồi lời ca rủ đời đi tìm “ngọt trong sầu than”, đi tìm “mạnh mẽ trong nguy nan”. Và rồi họ thấy “có xuân trên đông tàn”.
Lạy Mẹ Maria, có những chiều con nghe lời ca văng vẳng từ giáo đường: “Dẫu rằng đời con lầm than sức hèn con ngã nhiều phen, nhưng con luôn trông đến ngày tàn phai mùa đông, ánh vàng sự rỗi reo mừng”.
Mẹ là Mùa Xuân Ánh Sáng.
Mẹ đã tìm thấy ngọt trong sầu than trên đường Ai Cập vì Thánh Giuse chung khổ với Mẹ. Thánh Giuse đã gặp mạnh mẽ trong nguy nan vì Mẹ thương Thánh Cả trong những ngày không tìm được chỗ trọ cho Mẹ sinh con. Thánh Giuse không mang mặc cảm bị Mẹ Maria trách là không đủ khả năng tìm cho Mẹ một chỗ hạ sinh. Hôm nay, nhiều nỗi sầu riêng vì trong gia đình có khi vợ coi thường chồng vì mình kiếm nhiều tiền hơn chồng. Trong mọi hoàn cảnh Mẹ thương Thánh Giuse. Nơi Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse không có sầu riêng. Đau khổ và thiếu thốn thì có. Trong bóng đêm đường sang Ai Cập, cả hai cùng dìu nhau đi. Cô cực trong ngày tìm chỗ trú, cả hai chẳng ai trách ai. Và ngay từ đầu chưa về chung sống, Thánh Giuse đã kính trọng mẹ như thế nào.
Con hiểu khi nỗi sầu riêng mà là của riêng thì tình yêu thành đau đớn.
Không thiếu nhau trên những bước đường đời.
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái.
Anh yêu em bởi những điều ngược lại.
Phép lạ của tình yêu là như đôi dép, khác lắm, một bên là phải, một bên là trái, chỉ một điều giống nhau là bởi một bước đi chung.
Phép lạ của tình yêu là khi nỗi sầu riêng gặp nhau, không làm cho nỗi sầu đó thành đau đớn hơn, mà đau đớn chung ấy lại đưa họ đến tình yêu.
Anh yêu em bởi những điều ngược lại.
Gắn bó đời nhau bởi một bước đi chung.  
Vâng, Lạy Chúa, bởi một bước đi chung.  
Lm. Nguyễn Tầm Thường, SJ

Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim

Con Người đến đễ tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19,10)
Suy niệm
 
1. Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim

Ông Giakêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo.” Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc. 19, 8b10)

Ông Giakêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn bán từ Ảrập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do Thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.

Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ: Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì ra.

Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu . Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Ítraen về.

Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Simêon nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Ítraen vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).

Và tự hủy mình đi: Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.

Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Ápraham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.

2. Hoán cải đích thực

Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu . Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này. Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dể kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dể người khác không?

Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Ðối với người Do Thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do Thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.

Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: Ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
 
Cầu nguyện
 
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng chúng con hết lòng tôn thờ. Chúa là Đấng ban tặng cho chúng con sự sống và niềm tươi vui hoan lạc. Xin cho chúng con mỗi lần đón rước Mình Máu Thánh Chúa cũng được đổi mới tâm hồn nên thanh sạch, không vương vấn tội lỗi. Xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để chúng con cũng biết hiến dâng mạng sống mình thành niềm vui cho tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa đã ban cho Giakêu niềm vui được sống bên Chúa. Chúa còn cho Giakêu cơ hội tìm thấy niềm vui qua sự chia sẻ cơm bánh cho những người nghèo đói. Xin cho chúng con biết nắm lấy chìa khóa của sự bình an là lòng quảng đại, để chúng con biết sống bác ái với tha nhân, biết tìm niềm vui qua những nghĩa cử yêu thương mà chúng con dành cho nhau.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải mình mỗi ngày nên hoàn thiện trong tình nghĩa với Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác vơi ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa. Xin đừng để lòng tham khiến chúng con xa Chúa và sống ti tiện với anh em. Amen

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2010

www.ducme.tv Thánh vịnh Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Kiên tâm cầu nguyện

“Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?” (Lc 18,7)
Suy niệm: Cô nhi, bà goá và khách ngoại kiều là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội Do Thái. Vì thế, Kinh Thánh - đặc biệt qua các ngôn sứ - kêu gọi dành cho họ sự ưu tiên đặc biệt. Vậy mà bà goá trong dụ ngôn hôm nay không được ông quan toà bất chính, một kẻ không kính sợ Chúa, cũng chẳng coi ai ra gì, dành cho chút ưu tiên nào! Tuy nhiên, rốt cuộc ông đành chịu thua sự kiên trì của bà và phải giải quyết vụ kiện cho bà. Đức Giêsu đã dùng một dụ ngôn về sự tương phản để rút ra bài học trái ngược với ví dụ nêu trên: Nếu viên quan toà độc ác phải chấp nhận lời cầu xin kiên trì, thì Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân lành, chắc chắn sẽ ưu ái nhận lời cầu xin của những người được Ngài tuyển chọn làm con qua phép rửa.
Mời bạn: Cầu nguyện không chỉ là thân thưa với Thiên Chúa với tâm tình cảm mến tri ân, thần phục, nhưng còn là bày tỏ nhu cầu của mình để xin Chúa đoái thương. Thế nhưng, có lẽ bạn thường cầu xin nhiều hơn là cảm tạ? Tệ hơn nữa, bạn có thể đã trách móc và bất mãn khi thấy lời cầu xin như không được nhậm lời? Mời bạn chiêm ngắm Chúa Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành, để tiếp tục cầu nguyện với lòng tin tưởng và kiên trì hơn.
Sống Lời Chúa: Mỗi khi cầu nguyện, tôi sẽ thêm câu cuối sau đây: “Nhưng xin vâng theo ý Chúa thôi”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Đấng quan phòng yêu thương gìn giữ muôn loài.  Xin giúp chúng con, đang khi nỗ lực mưu sinh hằng ngày, cũng luôn trung kiên tin tưởng và bước theo Chúa cho đến hết hơi, cho đến trọn đời. Amen.